Categories
Giải Ảo Lịch Sử

Sự khác biệt giữa Bắc 54 và Bắc 75

– Bắc 54 : Yêu Tự Do, yêu Hoà Bình , yêu người dân Miền Nam Việt Nam và hy sinh để bảo vệ quê hương thứ hai của họ

-Bắc 75 : Gian manh , mưu mô , xảo trá , lừa dối, là những kẻ vừa ăn cướp vừa la làng , là những kẻ bán nước cầu vinh , không chỉ có vậy mà lại còn mất dạy , không có giáo dục, BK 75 đi tới đâu là bị khinh bỉ , cảnh giác khắp nơi trên thế giới và chúng muốn đồng hóa trẻ em Miền Nam VN đi theo những thói hư tật xấu của chúng.

=> Người Việt Quốc Gia cần phải tẩy chay Bắc 75 đừng để chúng tiêm độc vào con em của chúng ta.

Categories
Giải Ảo Lịch Sử

Định Nghĩa Về Hai Chữ “Dân Tộc”

Từ bao nhiêu năm nay, Cộng Sản luôn tuyên truyền bằng di chúc của tên Tàu cộng Hồ Chí Minh về “Thực hiện khát vọng Bắc Nam sum họp một nhà.” Tức là người Nam và người Bắc cùng là một dân tộc. Điều này cần phải hiểu cho rõ. Dụng ý sâu xa của hắn thực ra là gì? Điều này chỉ chánh xác từ khi Vua Gia Long đã thống nhứt cả ba miền Bắc, Trung, Nam sau khi phục quốc từ tay nhà Tây Sơn. Cũng chính Cao Tổ Gia Long là vị Cha Lập quốc đã đặt tên cho đất nước của chúng ta là Việt Nam.

Quý vị có thể đọc bài viết dưới đây để hiểu thêm:

Vì Sao Chỉ Có Quốc Gia VNCH Là Quốc Gia Hợp Pháp Sau Năm 1954?

Vì sao hai từ “dân tộc” đối với người miền Nam và người miền Bắc chỉ chánh xác từ khi Vua Gia Long thống nhứt ba miền? Tôi xin giải thích cho quý vị hiểu rõ về khái niệm “dân tộc” này.

Trước tiên, quý vị cần phải hiểu định nghĩa của hai từ “dân tộc”.

Dân Tộc là gì?

Dân tộc là một “cộng đồng người ổn định hợp thành nhân dân một nước, có lãnh thổ, quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có ý thức về sự thống nhất quốc của mình.”

Qua sự định nghĩa trên thì có thể đúc kết bằng 3 ý chánh để định nghĩa một dân tộc:

  • có chung ngôn ngữ và văn hóa,
  • có chung lịch sử
  • có chung một dự án cho tương lai.

Thiếu một trong ba điều thì không phải là cùng một dân tộc. Điển hình là sau năm Hiệp Định Geneve 1954 đất nước Việt Nam đã bị chia đôi thành hai Quốc Gia và hai thể chế riêng biệt theo như ý muốn của cộng sản miền Bắc. Miền Bắc, VNDCCH, theo thể chế Độc Tài Cộng Sản. Ngược lại, miền Nam, VNCH, theo thể chế Cộng Hòa Lập Hiến Tự Do. Điều đó có thể thấy rằng, người miền Bắc và người miền Nam có chung ngôn ngữ và văn hóa, có chung lịch sử, nhưng Việt Nam Cộng-hòa theo con đường chánh trị và hệ tư tưởng hòa toàn trái ngược với Việt Nam Dân-chủ Cộng-hòa, tức là không có chung một dự án tương lai.

Cho nên, luận điệu tuyên truyền của Việt cộng rằng “Nam – Bắc Một Nhà” hay “người Nam và cả người Bắc cùng là một dân tộc” là một điều hết sức vô lý. Hơn nữa, VNCH đã bị Việt cộng cưỡng chiếm bằng bạo lực và đang bị Cộng quân chiếm đóng một cách bất hợp pháp dựa vào Hiệp Định Paris 1973, Kết Ước Quốc Tế 1973 (Final Act)Hiến Chương Liên Hiệp Quốc tại điều 2.4. Tức có nghĩa là chế độ đang cai trị trên vùng đất, vùng biển dưới Vĩ tuyến 17 là một chế độ không có tánh chánh danh. Bởi lẽ đó, càng cho thấy rằng Nam Bắc không hề là một nhàngười Nam kỳ và người Bắc kỳ không phải là dân tộc.

Quý vị có thể đọc lại bài viết này để hiểu rõ vì sao VN dưới thời VC cai trị là quốc gia bất hợp pháp.

Vì Sao Việt Nam Dưới Thời Cai Trị Của Việt Cộng Là Một Quốc Gia Bất Hợp Pháp Từ Năm 1945?

Luận Điệu Nam – Bắc Một Nhà của Cộng Sản

Chỉ có MTGPMNVN và Cộng Sản Bắc Việt mới là cùng dân tộc!

Thậm chí cả người miền Bắc 54, công dân VNDCCH, di cư vào cũng chưa phải là một dân tộc với người miền Nam. Dù cho họ có quốc tịch VNCH đi chăng nữa cũng chưa phải là một dân tộc với người miền Nam vì họ không có chung lịch sử lập quốc VNCH sau khi chia đôi 2 miền.

Những người Bắc 54 di cư vào Nam

Tôi xin đưa ra một ví dụ điển hình ngoài nước VN cho quý vị hiểu. Sau năm 1975, từ khi Cộng Sản vào miền Nam chiếm thì rất nhiều công dân VNCH phải đi tỵ nạn ở các nước tự do như Pháp, Gia-Nã-Đại, Úc-Châu, Hoa-Kỳ, Nhựt-Bổn, v.v.. Sau khi họ có Quốc Tịch ở những nước đó rồi thì họ đâu phải là cùng một dân tộc với những người bản xứ. Lý do là vì: Tuy họ không có chung ngôn ngữ và văn hóa, lịch sử, nhưng cũng có cùng một dư án tương lai để xây dựng đất nước. Như tôi đã nói trên chỉ cần thiếu ít nhứt 1 trong 3 điều thì không phải là cùng một dân tộc.

Thậm chí các thế hệ sau, hậu duệ VNCH, được sanh ra ở các nước tự do đó thì họ đều là công dân nước đó rồi. Tuy nhiên, họ vẫn không phải là một dân tộc với những người bản xứ. Lý do là vì họ có chung ngôn ngữ và văn hóa, có chung dự án cho tương lai, nhưng họ không có chung lịch sử. Những thế hệ sau này là con cháu của di dân VNCH, dòng máu chảy trong người họ là người Việt và cũng là dân tộc Việt. Thậm chí cha mẹ họ không sống từ thời mới lập quốc. Cho nên họ cũng không phải là cùng một dân tộc với người bản xứ.

Đó là lý do vì sao tôi nói ở trên chỉ có vào thời Gia Long thống nhứt ba miền Bắc, Trung, Nam thì người Việt mới là cùng một dân tộc. Lý do là vì thời đó là thời mới lập quốc Việt Nam. Sau khi chia đôi VN, mỗi nước được lập quốc gia riêng biệt nên cả 2 quốc gia này đều là 2 dân tộc riêng biệt. Có thể nói nôm na thì người bên ngoài Bắc là dân tộc VNDCCH, còn người bên trong Nam là dân tộc VNCH.

Đây là bài viết giúp quý vị hiểu rõ về định nghĩa của khái niệm “dân tộc”. Quý vị có thể xem video clip dưới đây. Luật sư Lâm Chấn Thọ, anh Lê Văn Đạo và anh Huỳnh Quốc Huy sẽ giải nghĩa hai khái niệm “dân tộc” để cho quý vị hiểu rõ thêm.

Nguồn:

  1. https://tuyengiao.vn/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/thuc-hien-khat-vong-bac-nam-sum-hop-mot-nha-theo-di-chuc-cua-chu-tich-ho-chi-minh-123626
Categories
Quan Điểm Chính Trị

Chế Độ Cộng Sản Chính Là Thời Phong Kiến Kiểu Mới.

Chắc quý vị cũng biết rõ là thời phong kiến trong chế độ quân chủ chuyên chế thì nhà Vua chính là bậc Vương Tử cao trọng. Không một ai có quyền được xúc phạm tới Vua. Mà chúng ta không cẩn phải nhìn vào chế độ quân chủ chuyên chế xa xôi này mà hãy nhìn vào chế độ quân chủ lập hiến thời nay.

Trong thời chế độ quân chủ lập hiến ngày nay, nơi mà Vua và Hoàng gia không tham gia vào việc điều hành và vận hành bộ máy nhà nước, mà chỉ có vai trò tượng trưng bộ mặt của Vương quốc, nhưng khi người dân chỉ cần nói xấu, chê bai nhà Vua hoặc Nữ Hoàng thôi là đủ bị bắt vào tù rồi. Một điển hình là ở bên Thái Lan, có một người bị lãnh án tù 2 năm vì xúc phạm Hoàng Hậu của Hoàng Gia Thái.

Trong thời Cộng Sản ở Việt Nam cũng giống như vậy. Các quan chức Cộng Sản đều tự cho mình là vua và cơ chế trao cho họ có quyền lực như những ông vua. Mà vua thì lại đứng trên người dân và dân phải phục tùng vua. Khi dân làm sai thì dân phải chịu phạt và hình phạt nặng nhứt là tử hình. Còn nếu vua sai thì vua có thể xin lỗi trước dân chúng, nhưng thường thì vua sẽ im lặng và coi như không có gì và người dân chẳng làm gì được. Điều đó được minh chứng qua một câu nói từ một tên lãnh đạo cộng sản: “Nếu chúng ta sai, chúng ta nhận lỗi trước dân. Nếu dân sai thì dân phải chịu trách nhiệm trước pháp luật”. Do đó, khi nói xấu một người lãnh tụ hay lãnh đạo Cộng sản thì quý vị cũng đủ bị bắt rồi, huống gì là quý vị chống đối.

Một ví dụ điển hình là gần đây có một streamer bình phẩm về Chủ tịch nước. Cô này nói là: “Chứ chắc mấy bác Chủ tịch nước toàn chả làm cái mẹ gì suốt ngày ở nhà toàn xem phim 18+ nên là bác hói hết.” Kết quả là cô ta bị phạt “nhẹ” 10 triệu đồng. Một điều đáng nói ở đây là: Dù cho cô ta không hề nhắc tên của Chủ tịch nước là ai, tên họ cụ thể là gì và là lãnh đạo của một Quốc gia cụ thể nào, nhưng đối với tư duy độc tài và tự kỷ ám thị của độc tài cộng sản thì đó là sự xúc phạm nặng nề khi nhắc đến một người lãnh tụ.

Streamer nổi tiếng bị phạt

Và còn rất nhiều nạn nhơn khác đều bị Cộng Sản bắt vào tù và bị quy vào tội Lợi dụng quyền tự do dân chủ chiếu theo Điều 331 Bộ luật Hình sự.

Quý vị phải hiểu rõ lý do mà quý vị không thể nào lên tiếng, chửi bới, hay chống đối nhà cẩm quyền Cộng Sản VN được. Bởi vì Cộng Sản chính là phiên bản của phong kiến kiểu mới. Do đó, quý vị trong nước phải hết sức cẩn trọng đừng dại chống đối (công khai) hay lên tiếng cho người dân trong nước. Cộng Sản tự cho mình là vua cai trị, nhưng chúng thực chất là bọn xâm lược, là bạo quyền phi nhơn, thì quý vị chỉ là nô lệ của chúng mà thôi. Và quý vị cũng không thể nào quỳ lạy Cộng Sản (Vua) xin chúng ban phát nhơn quyền được, vì phận làm nô lệ thì muôn đời làm tôi tớ, nô lệ cho Vua chúa.

Thay vì chống đối hay chửi bới thì quý vị hãy tìm một giải pháp giúp quý vị thoát Cộng Sản. Hiện nay, chúng ta đang có một giải pháp gọi là Giải pháp VNCH giúp cho người Việt trong nước được thoát Cộng. Song song với giải pháp thì có Phong trào Tuyên Ngôn Hòa Bình. Giải pháp và Phong trào này có thể nói đều là một. Quý vị chỉ cần ủng hộ và rỉ tai nhau về giải pháp này thì sẽ thúc đẩy công cuộc này nhanh hơn. Lúc đó dân Việt trong nước sẽ thoát Cộng và được tự do như trước năm 1975 thời VNCH. Mời quý vị đọc bài viết Giải Pháp VNCHPhong Trào Tuyên Ngôn Hòa Bình được liên kết trong hai cụm từ nầy. Đồng thời, kính mời quý vị xem video dưới đây để hiểu rõ về Giải pháp cứu nước này.

Giải Pháp VNCH trình bầy bởi LS Lâm Chấn Thọ
Toàn Văn Tuyên Ngôn Hòa Bình

Nguồn:

  1. Thai protester sentenced to 2 years in prison for mocking queen with fashion show:
    https://nextshark.com/thai-protester-sentenced-to-2-years-in-prison-for-mocking-queen-with-fashion-show
  2. “Luật cho dân có khác luật cho cán bộ?”:
    https://tuoitre.vn/luat-cho-dan-co-khac-luat-cho-can-bo-20171106182925521.htm
  3. Vụ “Chủ tịch nước “hói” xem phim 18+”: https://www.nguoivietdallas.com/vit-nam/v-ch-tch-nc-hi-xem-phim-18
  4. Nữ streamer bị phạt kịch khung vì “xúc phạm” lãnh đạo cấp cao trên mạng xã hội:
    https://tuoitre.vn/nu-streamer-milona-bi-phat-kich-khung-vi-xuc-pham-lanh-dao-cap-cao-tren-mang-xa-hoi-20220906221122943.htm
Categories
Viết Đúng - Nói Hay Tiếng Việt

Khi nào dùng từ “Đăng Ký” hoặc “Ghi Danh”?

Có rất nhiều người Việt trong nước, nhứt là các thế hệ sanh sau năm 1975, họ đều xử dụng từ “đăng ký” để ghi tên nhập học, để tham gia, hay là được nhận một thứ gì đó. Tuy nhiên, họ đều hầu như xử dụng sai trong nhiều trường hợp. Từ chánh xác nhứt cho những trường hợp như ghi tên nhập học, tham gia, hoặc nhận một thứ gì đó chính là từ “ghi danh”. Thực ra hai từ “đăng ký” và “ghi danh” đều có nghĩa cả, nhưng quý vị cần phải biết xử dụng từ đúng trong từng trường hợp.

Trước tiên, chúng ta hãy cùng nhau phân tích về hai cụm từ “đăng ký” và “ghi danh”.

Đăng ký (động từ) là gì?

Đăng (động từ) có nghĩa là đưa lên. Ví dụ như là đăng báo, đăng bài, đăng tải. Nghĩa là chúng ta đưa một thứ hay một điều gì đó lên trên công chúng.

Ký(danh từ), hay còn gọi là là ký hiệu, nghĩa là cho phép kết luận về sự tồn tại hoặc về tính chân thực của một sự vật khác có liên hệ với nó.

Như vậy “đăng ký” nghĩa là đưa lên cho công chúng hay tổ chức tên của mình để xác nhận một thứ gì đó, sự vật đó thuộc về mình hoặc ai có liên hệ với mình. Đối với thời gian tánh thì từ “đăng ký” này được dùng trong trường hợp xác nhận chủ quyền hoặc một sự vật gắn bó với chúng ta trong thời gian dài hạn.

Xử dụng trong trường hợp để “tham gia” hoặc nhân phần thưởng là sai

Ví dụ:

  1. Đăng ký bản quyền: xác nhận bản quyền, tác quyền thuộc về tên của người sáng tạo hay sáng tác.
  2. Đăng ký kết hôn: xác nhận cả hai vợ chồng thuộc về nhau.
  3. Đăng ký đất đai và nhà cửa: xác nhận đất đai và nhà cửa thuộc về người chủ đã mua.
Xử dụng trong trường hợp xác nhận bản quyền thuộc về người sáng tạo là đúng.

Như đã trình bầy ở trên về thời gian dài hạn. Quý vị có thể hình dung được “đăng ký bản quyền” được xác nhận thuộc về người sáng tạo hay sáng tác này gắn bó với họ suốt cả cuộc đời ngay cả sau khi họ qua đời. Đồng thời “đăng ký kết hôn” xác nhận rằng cả hai vợ chồng thuộc về nhau suốt cả đời sống hôn nhân. Mà chắc quý vị có nghe câu chúc cho cả hai vợ chồng là “Trăm Năm Hạnh Phúc” phải không?

Ghi danh (động từ) là gì?

Ghi (động từ) nghĩa là dùng chữ viết hoặc dấu hiệu để lưu giữ một nội dung nào đó, khi nhìn lại có thể biết hoặc nhớ lại nội dung ấy.

Danh (danh từ) nghĩa là tên, tên người.

Như vậy “ghi danh” nghĩa là ghi tên. Như tôi đã trình bày “ghi danh” là việc chúng ta ghi tên để nhập học, để tham gia, hoặc để nhận một thứ gì đó. Khác với “đăng ký” thì “ghi danh” được xử dụng trong trường hợp thời gian ngắn hạnkhông xác nhận chủ quyền hoặc liên hệ với mình.

Ví dụ:

  1. Ghi danh khóa học: ghi tên để tham gia lớp học trong buổi học hoăc năm học.
  2. Ghi danh nhận quà: ghi tên để nhận quà.
  3. Ghi danh tham dự: ghi tên để tham dự một sự kiện nào đó.
Trường hợp này dùng từ “ghi danh” mới đúng

Như đã trình bầy ở trên về thời hạn ngắn hạn. Quý vị có thể hình dung được “Ghi danh khóa học” của niên khóa có thể là trên 1 năm hoặc dưới 1 năm. Ở các trường học, các em học sinh tới trường từ đầu tới cuối niên khóa trong 9 tháng trời học tập. Sau niên khóa thì các em được nghỉ hè 3 tháng và bắt đầu niên khóa mới và cứ tiếp tục cho tới khi các em tốt nghiệp lớp 12. Một ví dụ khác nữa là khi quý vị ghi danh để nhận một thứ gì đó của một dịch vụ mỗi định kỳ trong một khoảng thời gian nhất định mà có thể gia hạn hoặc hủy bất cứ lúc nào.

Đây là những định nghĩa cho của “ghi danh” và “đăng ký”. Các quý phụ huynh hãy dạy cho con em xử dụng tiếng Việt cho đúng để chúng không đánh mất đi sự thuần túy của tiếng Việt. Cũng như các bạn trẻ cần phải biết rõ để có thể dạy cho các thế hệ sau như con cái hoặc học trò của các bạn.

Nguồn tham khảo:

Định nghĩa của Đăng (động từ): https://www.rung.vn/dict/vn_vn/%C4%90%C4%83ng

Định nghĩa của Ký (danh từ): https://vi.wiktionary.org/wiki/k%C3%BD#Ti%E1%BA%BFng_Vi%E1%BB%87t

Định nghĩa của Ghi (động từ): http://tratu.soha.vn/dict/vn_vn/Ghi

Định nghĩa của Danh (danh từ): http://tratu.soha.vn/dict/vn_vn/Danh

Categories
Giải Ảo Lịch Sử

Vì Sao Chỉ Có Quốc Gia VNCH Là Quốc Gia Hợp Pháp Sau Năm 1954?

Trước khi đi vào bài viết. Tôi xin nhắc lại cho quý vị về “tánh chánh danh” của Việt Nam.

Việt Nam ta đã có một vị cha lập quốc là Cao Tổ Gia Long. Ông là người đã thành lập quốc gia mang tên “Việt Nam” sau khi thống nhứt 3 miền: Bắc, Trung, và Nam. Kể từ đó tánh chánh danh này được truyền tiếp qua 13 đời vua cho đến Vua Bảo Đại.

Ở bài viết trước, tôi có viết về Việt Nam dưới thời cai trị của Việt Cộng là một Quốc Gia bất hợp pháp từ năm 1945. Quý vị có thể đọc lại bài viết dưới đây:

Vì Sao Việt Nam Dưới Thời Cai Trị Của Việt Cộng Là Một Quốc Gia Bất Hợp Pháp Từ Năm 1945?

Như vậy Quốc Gia nào là hợp pháp kế thừa chánh danh từ Quốc Gia VN dưới thời Quốc Trưởng Bảo Đại?

Câu trả lời có trong bài viết trước. Chỉ có Quốc Gia VNCH kế thừa chánh danh từ Quốc Gia VN dưới thời Quốc Trưởng Bảo Đại mà thôi. Lý do là vì sao?

Vào ngày 11 tháng 3 năm 1954, Vua Bảo Đại đã đọc Tuyên Ngôn Độc Lập cho Đế Quốc Việt Nam để Việt Nam thoát khỏi sự cai trị của thực dân Pháp. Như vậy Đế Quốc Việt Nam đã được độc lập. Xin nhấn mạnh đây là Bản Tuyên Ngôn cho Đế Quốc Việt Nam chứ không phải là Quốc Gia Việt Nam.

Cho tới ngày 25 tháng 8, cùng thời gian Việt Minh cướp chánh quyền, Vua Bảo Đại bị ép thoái vị. Đây mới là ngày mà ông bị ép thoái vị và làm lễ thoái vị ngày 30 tháng 8. Sau khi tuyên bố thoái vị, Vua Bảo Đại đã trao ấn tín và kiếm cho Việt Minh, người nhận là Trần Huy Liệu. Như tôi đã viết ở bài trước, VNDCCH không bao giờ kế thừa tánh chánh danh vì chúng cướp chánh quyền và ép trao quyền. Chứ không phải là do ông Bảo Đại tự nguyện trao quyền cho Việt Minh. Quý vị có thể xem ở bài viết dưới đây:

Vì Sao Việt Nam Dưới Thời Cai Trị Của Việt Cộng Là Một Quốc Gia Bất Hợp Pháp Từ Năm 1945?

Còn một lý do khác nữa rất hợp lý cho thấy ông vẫn là Vua của Đế Quốc Việt Nam sau khi trao quyền. Lý do là vì ông chưa bao giờ trao ấn tín cho Việt Minh. Quý vị có thể hỏi là “Tại sao ông Bảo Đại trao Ấn và Kiếm cho Việt Minh rồi nhưng sao giờ lại nói là chưa trao Ấn?”. Tôi sẽ viết một bài giải thích ở một bài viết sau.

Mãi cho tới năm 1948 ông mới thực sự tuyên bố thoái vị và trở thành Quốc Trưởng. Sau đó thành lập Quốc Gia Việt Nam vào ngày 14 tháng 6 năm 1949. Trước đó ông đã đọc Tuyên Bố Độc Lập cho Quốc Gia Việt Nam vào ngày 06 tháng 6 năm 1949.

Bản Tuyên Ngôn Của Cựu Hoàng Bảo Đại
Bản Tuyên Ngôn Của Cựu Hoàng Bảo Đại

Quốc Gia Việt Nam cũng chính là Quốc Gia theo thể chế Quân Chủ Lập Hiến. Quốc Trưởng Bảo Đại đã mời Ngô Đình Diệm về Việt Nam làm Thủ Tướng và do chính Thủ Tướng điều hành chánh trị. Như vậy, ông Ngô Đình Diệm đã làm việc dưới thời Quốc Trưởng Bảo Đại.

Sau năm 1954, Quốc Gia Việt Nam bị chia đôi tại vỹ tuyến 17: Miền Bắc là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, miền Nam là Việt Nam Cộng Hòa(VNCH). Sau cuộc Tổng Tuyển Cử vào năm 1955 thì ông Ngô Đình Diệm đã trở thành Tổng Thống của Đệ Nhứt VNCH và phế truất Bảo Đại. Như vậy: Thủ tướng Quốc gia Việt Nam đã làm việc dưới thời của Quốc Trưởng Bảo Đại và sau đó được bầu làm Tổng thống của Việt Nam Cộng Hòa. Do đó, có thể xác định mạnh mẽ rằng : Chỉ có Quốc Gia VNCH mới kế thừa tánh chánh danh của Quốc Gia Việt Nam.

Tổng Thống Đệ Nhứt VNCH Ngô Đình Diệm

Kết luận:

Chỉ có Quốc Gia VNCH kế thừa tánh chánh danh của Quốc Gia Việt Nam dưới thời Bảo Đại. Sau cuộc Tổng Tuyển Cử, tức là dân bầu lên, ông Ngô Đình Diệm thành Tổng Thống của Đệ Nhứt VNCH và phế truất Bảo Đại. Quốc Gia VNCH cũng dùng lá cờ vàng 3 sọc đỏ như thời Quốc Gia VN. Còn VNDCCH, với hậu thân là CHXHCN VN, muôn đời không bao giờ kế thừa tánh chánh danh của Quốc Trưởng Bảo Đại. Lý do là vì Quốc Trưởng Bảo Đại không trao Ấn Tín cho Việt Minh.

Cho nên người dân miền Nam VN phải nhớ rằng sau khi Việt Cộng chiếm miền Nam, thì chúng đã vi phạm Hiệp Định Paris 1973 và Hiến Chương Liên Hiệp Quốc. Thậm chí theo luật Quốc Tế, một Quốc Gia đi chiếm đóng nước khác không bao giờ kế thừa tánh chánh danh. Như vậy là tất cả quý vị đều là công dân VNCH chứ đâu phải là công dân CHXHCN VN. Đã là công dân VNCH thì chúng ta phải có trách nhiệm quang phục lại VNCH! Đã có một giải pháp giúp chúng ta lấy lại Quốc Gia VNCH. Mời mọi người vào trang Tuổi Trẻ Quốc Gia để tham khảo: https://www.tuoitrequocgia.org/

Categories
Giải Ảo Lịch Sử

Tại sao người Việt chúng ta không bị Tàu đồng hóa suốt 1000 năm Bắc Thuộc ?

Courtesy of Hoàng Cơ Định

VÌ CHÚNG TA CÓ NGÔN NGỮ RIÊNG: TIẾNG VIỆT.
TIẾNG VIỆT CÒN, DÂN VIỆT CÒN.

Một ngàn năm Bắc thuộc đã được các sử gia Việt Nam quy định bắt đầu từ năm 111 TCN, kết thúc vào năm 938 do chiến thắng của Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng. Thật ra nước ta đã bị Bắc thuộc từ năm 180 TCN bởi nước Nam Việt của Triệu Đà. Triệu Đà là một viên Tướng của Tần Thủy Hoàng, ông đã chiếm cứ 3 quận phía Nam của nhà Tần mà lập nên nước Nam Việt vào năm 208 TCN. Tới năm 180 TCN Triệu Đà xâm chiếm nước Âu Lạc, chia thành hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân sát nhập vào Nam Việt. Đối với Âu Lạc, Triệu Đà cai trị một cách khoan nhượng, coi Âu Lạc như một thành phần của Bách Việt và đã tạo được cảm tình lâu dài. Khi Nam Việt bị nội thuộc Nhà Hán thì Âu Lạc cũng bị chung số phận.

Vào năm 226, sau nhiều cuộc nổi dậy của người Âu Lạc, nước Tàu lúc đó thuộc Nhà Đông Ngô, đã chia lãnh thổ Nam Việt trước đây dọc theo biên giới Việt Hoa ngày nay, phía Nam gồm Âu Lạc và Hợp Phố gọi là Giao Châu, phía Bắc là Quảng Châu. Tới năm 938 Âu Lạc giành lại được quyền tự chủ sau chiến thắng của Ngô Quyền trong khi Quảng Châu hoàn toàn thuộc về nước Tàu.

Vì sao, trong chiều dài 1000 năm, người dân Âu Lạc giữ được sắc thái riêng biệt, không bị đồng hóa với khối người Hán tại phương Bắc? Chắc hẳn có nhiều lý do, một phần có thể do yếu tố địa lý, núi cao chia cắt vùng này với phương Bắc. Quan trọng hơn là do các sắc dân sống trong thung lũng Sông Hồng, dòng dõi của Lạc dân thời Hùng Vương, có đặc tính khác biệt so với dân Bách Việt trong vùng Hoa Nam. Yếu tố đã tạo nên một Dân Tộc Tính khác biệt đã được thấy rõ hơn vào các thế kỷ kế tiếp, đó chính là vì tiếng nói riêng biệt của tổ tiên chúng ta trước đây, đó là Tiếng Việt.

Có tiếng nói nhưng chưa chắc đã có chữ viết, hay vì chữ viết quá thô sơ nên tổ tiên chúng ta đã sử dụng chữ Hán để ghi chép sự việc. Nhu cầu vay mượn chữ Hán của người phương Nam đã ăn nhịp với việc dùng Hán tự như một phương tiện bành trướng của phương Bắc. Hán học chính là quyền lực mềm của nước Tàu từ nghìn xưa.

Hán học đã ăn sâu vào văn hóa nước ta, ngay như sau khi đã giành được độc lập, các triều đại Việt Nam vẫn dùng chữ Hán làm văn tự chính thức. . Hán tự mà dân Việt gọi là chữ Nho viết như chữ Tàu, chỉ có cách phát âm là khác.

Dầu cho bị ảnh hưởng sâu đậm qua chữ Viết nhưng tổ tiên chúng ta vẫn có ngôn ngữ nói riêng biệt. Năm 791 Phùng Hưng nổi lên chống lại ách đô hộ của Nhà Đường, lấy lại độc lập cho nước Ta được 7 năm. Khi mất được dân chúng tôn làm Bố Cái Đại Vương. Hai chữ “Bố Cái” có nghĩa là “Cha Mẹ” là những chữ không có trong chữ Nho. Nỗ lực viết Tiếng Việt một cách riêng biệt được thực hiện bắt đầu từ thời Nhà Trần qua lối viết chữ Nôm. Lối viết Chữ Nôm chính là nỗ lực Việt Nam hóa Hán tự. Các Cụ đã dùng những chữ Hán ghép lại để đọc các âm thanh thuần túy trong ngôn ngữ của dân ta. Chữ Nho chỉ là lối viết và phát âm của một thiểu số trí thức trong xã hội trong khi chữ Nôm (có thể do âm thanh “chữ Nam”) mới ghi lại tiếng nói lâu đời phổ thông trong quần chúng.

Hai câu mở đầu trong bản “Hịch Xuất Quân” của Nguyễn Huệ đã được viết bằng chữ Nôm và đọc hoàn toàn theo tiếng nói của người Việt Nam:
打未底𨱾𩯀

打未底黰𪘵

“Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để đen răng”

Chỉ câu kết, có thể vì thói quen đã ăn xâu vào tâm thức người Việt qua nhiều thế kỷ, nên Nguyễn Huệ đã phát biểu vừa Nôm vừa Hán:
“Đánh cho Sử tri Nam Quốc anh hùng chi hữu chủ”

(Đánh để sử xanh ghi lại là nước Nam anh hùng này có chủ.)

Bắt đầu từ Thế Kỷ 19, dưới triều đại độc lập Gia Long, văn học Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ qua các tác phẩm chữ Nôm như Truyện Kiều của Nguyễn Du và Chinh Phụ Ngâm của Đoàn Thị Điểm. Hai tác phẩm này là biểu thị của Dân Tộc Tính Việt Nam, đã lan tỏa từ Nam tới Bắc.

Qua tới Thế kỷ 20, lối viết bằng chữ Quốc ngữ đã thay thế cho chữ Nôm (là lối viết khó học, khó nhớ), giúp cho tiếng Việt nối kết dân tộc Việt Nam từ Nam tới Bắc. Học giả Phạm Quỳnh đã có một nhận định sâu sắc: “Tiếng nước Nam còn thì nước Nam còn”. Và Nhạc sĩ Phạm Duy đã đồng hóa tiếng Việt với nước Việt qua lời nhạc bất hủ:
Tiếng nước tôi! Tiếng mẹ sinh từ lúc nằm nôi. Thoắt ngàn năm thành tiếng lòng tôi, Nước ơi!”

Tiếng Việt đã giúp dân tộc Việt Nam không bị đồng hóa bởi đế quốc phương Bắc suốt ngàn năm qua, đó là lý do thế hệ chúng ta cần nỗ lực Học và Dạy nhau Tiếng Việt.

Còn Tiếng Việt thì Còn Dân Việt, Còn Nước Việt.

Hoàng Cơ Định

22/10/2022

Categories
Cảnh Báo Tuyên Truyền Giải Ảo Lịch Sử Quan Điểm Chính Trị

Vì Sao Việt Nam Dưới Thời Cai Trị Của Việt Cộng Là Một Quốc Gia Bất Hợp Pháp Từ Năm 1945?

Tánh Chánh Danh là gì?

Tánh chánh danh nghĩa là tánh “có nội dung, có chất lượng đúng với tên gọi”⁽¹⁾. Ví dụ như là Vương Quốc Việt Nam, Cộng Hòa Việt Nam, Hợp Chủng Quốc Đại Nam, v.v… Mà để có tánh chánh danh này thì phải bắt nguồn từ các vị lập quốc. Ví dụ : Ở Hoa Kỳ thì gồm có 55 vị cha lập quốc đã soạn ra Hiến Pháp và đặt tên cho thể chế là Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ bởi vì Hoa Kỳ là Quốc Gia có rất nhiều sắc tộc di cư đến sinh sống.

Tánh Chánh Danh của Việt Nam là gì?

Theo như định nghĩa ở trên thì một thể chế muốn có được tánh chánh danh thì phải có được tính truyền-tiếp, kế-thừa hợp-pháp từ chính người lập ra thể chế đó.

Việt Nam ta đã có một vị cha lập quốc đó chính là Nguyễn Phước Ánh, tức Cao Tổ Gia Long. Ông là người có công thống nhất 3 miền Bắc, Trung, Nam thành một Quốc Gia và cũng là người đã đặt tên cho đất nước này là “Việt Nam.” Kể từ đó tánh chánh danh này được truyền tiếp qua 13 đời vua cho đến Vua Bảo Đại.

Vậy làm cách nào để kế thừa tánh chánh danh đó?

Tùy theo thể chế của Quốc Gia đó sẽ quyết định quyền kế thừa tánh chánh danh:

  1. Từ thời Cao Tổ Gia Long, thể chế của VN thời điểm đó là Quân Chủ Chuyên Chế. Tức là người đứng đầu đất nước là Vua, và người kế ngôi là các Vương Tử sau này. Các Vương Tử kế ngôi đó sẽ kế thừa tánh chánh danh của các đời trước. Trong trường hợp bất đắc dĩ, nếu không có hậu duệ của các đời vua trước thì theo luật Tể Tướng sẽ là người lên ngôi trị vì.
  2. Còn theo thể chế Cộng Hòa hoặc Quân Chủ Lập Hiến thì sẽ là do người dân bầu lên dựa trên trưng cầu dân ý để làm Tổng Thống hoặc Thủ Tướng. Với điều kiện là phải kế thừa người lập quốc. Trong trường hợp bất đắc dĩ nếu Tổng Thống(TT) mất thì Phó TT sẽ lên thay. Còn nếu Phó TT mất thì Chủ Tịch Thượng Viện hoặc Hạ Viện sẽ lên làm Tổng Thống và tổ chức cuộc bầu cử mới (tùy theo Hiến Pháp của Quốc Gia đó).
  3. Nếu như có một tổ chức hay cá nhơn nào đó cướp chánh quyền mà không phải do dân bầu hoặc không phải là hậu duệ của Hoàng Gia Chuyên Chế thì sẽ không bao giờ kế thừa được tánh chánh danh.

Từ xưa đến nay nhiều ý kiến từ phía bên kia chiến tuyến, tức những thành phần theo Cộng Sản, cho rằng Vua Bảo Đại đã thoái vị dưới sự yêu cầu của Việt Minh. Tới ngày 29 tháng 8, ông Bảo Đại trao ấn kiếm từ thời Vua Gia Long cho Việt Minh và kế thừa tánh chánh danh của Quốc Gia VN dưới thời Bảo Đại. Cho đến nay Cộng Sản luôn tuyên truyền rằng “Bác Hồ là người có công giúp cho VN được độc lập. Bác đã độc Tuyên Ngôn Độc Lập ngày 2 tháng 9 cho thấy VN ta đánh dấu sự kiện chấm dứt chế độ quân chủ phong kiến và từ nay sẽ có một chính quyền khác do nhân dân làm chủ.”

Nếu như quý vị tìm hiểu về lịch sử thì sẽ thấy mọi lời tuyên truyền của Ban Tuyên Giáo đều sai sự thật. Ngày cách mạng tháng 8 và ngày Quốc Khánh của VN cũng đều sai sự thật. Ngày cách mạng tháng 8 thực chất là ngày Việt Minh cướp chánh quyền của Trần Trọng Kim. Còn ngày Quốc Khánh 2 tháng 9 là giả tạo. Quý vị có thể đọc hai bài của tôi đã viết:


Như tôi nêu ở trên là cướp chánh quyền thì đâu có nghĩa người ta sẽ kế thừa tánh chánh danh của người đứng đầu. Ví dụ nhà quý vị bị cướp chiếm lấy căn nhà và ở luôn trong căn nhà đó thì đâu có nghĩa bọn cướp được kế thừa chủ quyền căn nhà đó. Giấy tờ nhà của quý vị còn đó. Chừng nào tên của quý vị còn in trên giấy thì chú quyền căn nhà vẫn thuộc về quý vị. Trừ khi quý vị và lũ cướp đó thỏa hiệp và đi sang tên cho tụi nó thì chúng mới có quyền thừa kế.

Cho nên Ban Tuyên Giáo nói Bảo Đại trao ấn kiếm cho Việt Minh trước khi thoái vị và kế thừa tánh chánh danh của Quốc Gia VN là hết sức vô lý. Có hai điểm vô lý của Việt Cộng sau đây:

  1. Việt Cộng tuyên truyền rằng: Vua Bảo Đại thoái vị vào ngày 30 tháng 8, năm 1945 sau 1 ngày trao ấn kiếm cho Việt Minh.
  2. Sau khi nhận ấn kiếm thì Việt Minh đã “tuyên bố xóa bỏ chính thể quân chủ từ ngày xưa để lại và chấm dứt ngôi vua cuối cùng của triều Nguyễn.”

Hai điểm trên quý vị có thấy mâu thuẫn với hai bài viết của tôi không? Sự thật là gì?

  1. Vua Bảo Đại đã tuyên bố Việt Nam độc lập vào ngày 11 tháng 3, năm 1945. Ông cũng đã tuyên bố thoái vị ngày 25 tháng 8 và đồng thời chấm dứt chế độ quân chủ và xây dựng thể chế tự do dựa trên trưng cầu dân ý.
  2. Lúc này Bảo Đại không còn là Vua nữa thì dù cho ông có trao ấn kiếm đó thì cũng không có giá trị gì cả. Người trao ấn kiếm đó phải là một vị vua còn tại chức thì mới hợp lệ.
Hình Ảnh Quốc Trưởng (không phải Vua) Bảo Đại trao ấn kiếm cho Việt Minh
Bản Tuyên Bố Thoái Vị của Vua Bảo Đại ngày 25 tháng 8, năm 1945

Quý vị thấy những điểm trên của Việt Cộng có thấy sự dối trá của chúng chưa? Mà cho dù Quốc Trưởng Bảo Đại có trao ấn kiếm đi chăng nữa để Việt Minh có được tánh chánh danh thì họ phải thừa hành ý chí của ông. Nguyện vọng của Quốc Trưởng Bảo Đại là làm sao để dân được tự dotự quyết định tương lai của mình. Vậy mà Việt Minh hay Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa(VNDCCH) không hề thực hiện theo nguyện vọng của Quốc Trưởng Bảo Đại. Nếu như Việt Minh không kế thừa ý chí của Quốc Trưởng Bảo Đại thì dù cho có được trao ấn kiếm thì cũng không có giá trị về thừa kế tánh chánh danh.

Sau khi VN chia đôi vào năm 1954 thì chỉ có Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) mới kế thừa tánh chánh danh của Quốc Gia VN. Lý do là vì VNCH có tổ chức cuộc trưng cầu dân ý và bầu ông Ngô Đình Diệm lên làm Tổng Thống. Đồng thời ông cũng từng là Thủ Tướng do Quốc Trưởng Bảo Đại tin tưởng và chỉ định. Tức là VNCH kế thừa ý chí của Quốc Trưởng Bảo Đại có tổ chức cuộc trưng cầu dân ý, tức là để cho quốc dân tự quyết định vận mạng tương lai Quốc Gia. Trong khi VNDCCH thì không bao giờ tổ chức cuộc trưng cầu dân ý thì đồng nghĩa họ đâu hề kế thừa tánh chánh danh của Quốc Gia VN từ thời Quốc Trưởng Bảo Đại.

Cuộc Trưng Cầu Dân Ý dưới thời Đệ Nhứt VNCH

Quý vị có thể xem video này để tham khảo thêm:

Video giải ảo về tánh chánh danh

Kết luận, chỉ có VNCH mới kế thừa tánh chánh danh vì đã thực hiện theo nguyện vọng của Quốc Trưởng Bảo Đại là mang lại tự do dân chủ cho dân Việt. Còn VNDCCH không bao giờ kế thừa vì vào thời điểm trao ấn kiếm Bảo Đại không còn là vua nữa và đồng thời chúng không bao giờ tổ chức bầu cử dựa trên trưng cầu dân ý.

Cho nên quý vị phải hiểu rõ Việt Nam bây giờ, tức CHXHCNVN, là một Quốc Gia bất hợp pháp. Chỉ có Việt Nam Cộng Hòa mới là Quốc Gia hợp pháp, hợp hiến, và có chánh danh. Hiện tại chúng ta đang có Chánh Phủ Pháp Định VNCH tiếp tục công quyền của Đệ Nhị VNCH. Chúng ta chỉ tin tưởng vào Chánh Phủ Pháp Định và Chánh Phủ Đệ Tam VNCH sau này mà thôi. Chánh Phủ Pháp Định đang làm việc cật lực để giúp cho miền Nam có cuộc Tổng Tuyển Cử. Cho nên quý vị phải tỉnh thức và tỉnh táo để nhận thức được rẳng: Chỉ có Chánh Phủ Pháp Định VNCH mới là đồng minh của quý vị. Đồng thời Quốc Gia VNCH mới là Quốc Gia của quý vị chứ không phải là nước VN hiện tại đang bị lũ chóp bu cộng sản VN thời nay cai trị.

Nhân đây, xin mời quý vị theo dõi trang web mới của chúng tôi để hiểu hơn về Chánh phủ pháp định VNCH. Rất nhiều thắc mắc của quý vị sẽ được giải đáp ở đây. Xin đừng ngần ngại liên lạc nếu quý vị có câu hỏi liên quan nào đến chúng tôi: https://www.tuoitrequocgia.org

Nguồn:

  1. Định Nghĩa Chánh Danh: http://tratu.soha.vn/dict/vn_vn/Ch%C3%ADnh_danh
  2. Vua Bảo Đại thoái vị, trao ấn, kiếm như thế nào?https://zingnews.vn/vua-bao-dai-thoai-vi-trao-an-kiem-nhu-the-nao-post821582.html
  3. Hồi Ký Vua Bảo Đại: Cách Mạng Việt Minh trang 186 trích đoạn Tuyên Bố Thoái Vị https://drive.google.com/file/d/1rRk_pQVlfLC2pYTtYP2Dlq4M09aO-VE4/view?usp=sharing
Categories
Quan Điểm Chính Trị

Bà Thatcher Muốn Ông Fraser Mua Hòn Đảo Cho Người Việt Tỵ Nạn.

Bài viết được dịch từ bài gốc tờ báo Sydney Morning Herald: https://www.smh.com.au/national/thatcher-wanted-fraser-to-buy-island-for-refugees-20091230-ljy3.html

LO NGẠI về phản ứng dữ dội của công chúng đối với người tỵ nạn Việt Nam, bà Thủ Tướng Anh Margaret Thatcher đã đề nghị Úc giúp mua một hòn đảo để tái định cư cho họ, tài liệu này được tiết lộ từ nội các Anh Quốc từ năm 1979.

Được tháo mở sau 30 năm bị bắt buộc im tiếng, các bài báo trên Phố Downing tiết lộ mức độ không thiện cảm của Bà Thủ Tướng Anh lúc bấy giờ đối với việc cấp phép tỵ nạn cho 10,000 thuyền nhân theo yêu cầu của Liên Hiệp Quốc.

Người Đàn Bà Thép đã cảnh báo các Bộ Trưởng của mình về ”bạo loạn trên đường phố” và nghĩ ra một kế hoạch để Thủ Tướng Úc lúc bấy giờ là Malcolm Fraser cùng mua một hòn đảo ở Indonesia hoặc Philippines – ”không chỉ như một nơi trung chuyển mà còn là một nơi định cư cho tất cả những người tỵ nạn”, các báo chí cho biết.

Margaret Thatcher hy vọng Malcolm Fraser sẽ giúp bà khỏi phải tiếp nhận hàng ngàn thuyền nhân Việt Nam.

Kế hoạch về một khu định cư của người tỵ nạn đã bị chặn bởi Lý Quang Diệu, lãnh đạo của Singapore, người lo ngại nguy cơ Quốc Gia này có thể trở thành một ”thành phố đối thủ trong kinh doanh”.

Cựu Thủ Tướng Đảng Tự do đã không thể nhớ đề xuất ngày hôm qua nhưng ông vẫn nhớ sự thiếu thiện chí của Anh quốc trong việc hỗ trợ nỗ lực tái định cư. ” Tôi hoàn toàn không có hồi ức về nó. Tôi có một trí nhớ khá tốt về những gì đã xảy ra vào thời điểm đó, ” ông Fraser nói. ” Người Anh không tham gia vào việc tiếp nhận một số lượng lớn người tỵ nạn Việt Nam. Chúng tôi, Canada, Hoa Kỳ và Pháp đã tiếp nhận rất nhiều.”

Úc cuối cùng đã trở thành quê hương của khoảng 220.000 người Việt tỵ nạn. Canada tiếp nhận thêm một số, Mỹ hơn một triệu, và Pháp khoảng 90.000 người tỵ nạn.

Ông Fraser nói: “Một trong những vấn đề là rất nhiều người chạy trốn khỏi Việt Nam trên những chiếc thuyền.… hoàn toàn không phù hợp để sinh tồn trên biển.”

”Vì vậy, điều cần thiết là cố gắng thành lập các nơi tỵ nạn ở một trung tâm nhất định mà họ có thể đến mà không làm cho cuộc hành trình dài hơn nó phải có.”

Malaysia ban đầu đã đẩy thuyền trở lại biển và nhiều người tỵ nạn được cho là đã chết đuối.

”Là kết quả của ngoại giao, họ đã đồng ý thành lập các trung tâm lưu trú. Việc đó chỉ xảy ra với điều kiện rằng chúng tôi và các quốc gia khác sẽ tiếp nhận một số lượng rất lớn người tỵ nạn để họ không bị bỏ lại, vì đó là một vấn đề đối với Malaysia”, ông nói.

Ông Fraser nói rằng cần phải có một nỗ lực toàn cầu tương tự. Ông nói, những lời chỉ trích liên tục của phe đối lập về các chính sách bảo vệ biên giới của Chính phủ đã trở thành một chuyện hoang tưởng lâu dài.

”Đây rõ ràng là chuyện vô nghĩa. Các chính trị gia sẽ ngạc nhiên về mức độ được ủng hộ của một đảng chính trị, nếu đảng đó thực sự lên tiếng, góp sức giúp cho người xin định cư tỵ nạn và người chạy nạn cũng như giải thích về hoàn cảnh, vì sao mà họ đang chạy nạn.

”Điều đó chứng tỏ bạn phải có rất nhiều dũng khí để bỏ lại tất cả, để cố gắng có được một tương lai tốt đẹp hơn cho gia đình của bạn.”

Lập trường tự do của chính phủ Fraser đối với người tị nạn Việt Nam không gặp phải sự phản đối chính trị nào.

Categories
Cảnh Báo Tuyên Truyền Giải Ảo Lịch Sử Quan Điểm Chính Trị

Ngày Độc Lập Của Quốc Gia Việt Nam Là Ngày Nào?

Ngày Quốc Khánh của Việt Nam là ngày 2 tháng 9 phải không? Không. Ngày 2 tháng 9 không phải là ngày Quốc Khánh của Việt Nam. Lý do vì sao tôi nói vậy thì tôi sẽ giải thích ở trong bài viết này.

Như chúng ta đã từng học trong mái trường Xã Hội Chủ Nghĩa, Cộng Sản Việt Nam đã viết trong sách giáo khoa rằng ngày 2 tháng 9 là ngày Quốc Khánh của Việt Nam. Hồ Chí Minh đã đọc tuyên cáo độc lập cũng vào ngày đó và “tuyên bố trước toàn thế giới về sự ra đời của một nhà nước mới: Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam).”

Thực chất là không phải như vậy. Như bài viết trước tôi có đề cập là ngày Cách Mạng Tháng 8 thực chất là ngày cướp chánh quyền của Thủ Tướng Trần Trọng Kim. Lúc đó Quốc Gia Việt Nam đã được độc lập và chấm dứt thể chế Quân Chủ, chuyển sang một thể chế tự do, dân chủ, và trưng cầu dân ý. Trần Trọng Kim là Thủ Tướng của Quốc Gia Việt Nam do Vua Bảo Đại chỉ định. Tuy nhiên, Nội Các của Trần Trọng Kim bị Việt Minh cướp sau 4 tháng tồn tại vì lúc đó còn hạn chế về quân đội. Quý vị có thể đọc thêm ở bài viết này:

https://hauduenamviet.blog/2022/08/26/ngay-cach-mang-thang-8-thuc-chat-la-ngay-viet-minh-cuop-chanh-quyen-tran-trong-kim/

Cho nên đã là cướp thì đương nhiên chánh phủ này đã bất hợp pháp rồi. Dù cho Hồ Chí Minh có lên đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập vào ngày 2 tháng 9, tức ngày Quốc Khánh, thì cũng không có giá trị về mặt pháp lý, tức là không có chánh danh. Không những thế, bản tuyên ngôn độc lập mà Hồ Chí Minh soạn và đọc thực ra là đi ăn cắp từ bản Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ như:

“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”

Cho dù có trích đoạn này mà không có sự cho phép của Hoa Kỳ thì cũng là ăn cắp từ nước khác. Suy ra nó cũng không hề có giá trị và không hợp pháp.

Hồ Chí Minh đọc “tuyên ngôn độc lập” ngày 2 tháng 9
Bản Tuyên Ngôn Độc Lập ăn cắp từ Hoa Kỳ
Bản Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ

Ngày Quốc Khánh của Quốc Gia Việt Nam chính là ngày 11 tháng 3, hai ngày sau khi Nhật đảo chính thực dân Pháp ở Đông Dương và chánh thức thỏa thuận việc trao trả độc lập cho Việt Nam, Vua Bảo Đại đã công bố bản Tuyên bố độc lập trước sự chứng kiến của đại sứ Nhật Bản Yokoyama Masayuki đồng thời thành lập Chính phủ Đế quốc Việt Nam, do thủ tướng Trần Trọng Kim đứng đầu (xem hình bên dưới). Ông đã ký đạo dụ “Tuyên cáo Việt Nam độc lập”, tuyên bố hủy bỏ Hòa ước Patenôtre ký với Pháp năm 1884 cùng các hiệp ước nhận bảo hộ và từ bỏ chủ quyền khác, khôi phục nền độc lập của đất nước, thống nhất Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ” (BBC Tiếng Việt).

Sau năm 1954, nước Việt Nam bị chia đôi thành hai quốc gia, hai thể chế riêng biệt chiếu theo Hiệp Định Geneve 1954. Ngày Quốc Khánh ở miền Bắc, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa(VNDCCH), thì được cho là vào ngày 2 tháng 9 từ khi cướp chánh quyền Trần Trọng Kim, và không được bất cứ chính quyền nào trên thế giới công nhận ở thời điểm đó.

Còn ở miền Nam thì theo thể chế Cộng hòa gọi là Việt Nam Cộng Hòa. Thời Đệ Nhứt VNCH, dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm, “ngày 26/10/1956, – ngày Quốc Hội Lập Hiến chính thức ban hành Hiến Pháp được xem là Ngày Quốc Khánh Việt Nam Cộng Hòa (VNCH)” (Phan Anh Tuấn; dòng 1). Quốc Gia VNCH là Quốc Gia kế thừa tánh chánh danh của Quốc Gia VN dưới thời Quốc Trưởng Bảo Đại nên rõ ràng “Ngày 26/10/1956 khai sinh Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa Ngày Quốc Khánh rất hợp lý hợp tình và… hợp pháp! (Phan Anh Tuấn; dòng 23).

Đệ Nhứt Cộng Hòa

Đến năm 1967, một bản Hiến pháp mới được thông qua và thi hành, dẫn đến sự ra đời của nền Đệ nhị cộng hòa (1967-75). Đệ Nhị Cộng hòa Việt Nam (1967-1975) là chánh thể dân sự của Việt Nam Cộng hòa thành lập trên cơ sở của bản Hiến pháp tháng 4 năm 1967 và cuộc bầu cử tháng 9 năm 1967. Ngày 1 tháng 11 năm 1967 được xem là ngày chính thức thành lập nền Đệ Nhị Cộng hòa. Cũng như thời Đệ Nhứt Cộng Hòa, ngày Quốc Khánh Đệ Nhị Cộng Hòa cũng rất hợp tình, hợp lý, và hợp pháp vì đây là Quốc Gia kế thừa tánh chánh danh của Quốc Gia VN dưới thời Quốc Trưởng Bảo Đại. Tất nhiên, chúng ta coi ngày Quốc Khánh chánh thức của Quốc Gia VN là ngày 1 tháng 11 năm, 1967.

Đệ Nhị Cộng Hòa

Sau cuộc cưỡng chiếm miền Nam 1975, ngày 2 tháng 9 được ép buộc là “ngày Quốc Khánh” cho đất nước Việt Nam. Như tôi đã viết ở trên, ngày 2 tháng 9 được cho là ngày Quốc Khánh của Việt Nam là hoàn toàn không có giá trị. Sau khi Việt Minh cướp chánh quyền Trần Trọng Kim thì mặc nhiên đã là bất hợp pháp rồi. Sau năm 1954, miền Bắc Việt Nam, tức Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa cũng là một quốc gia bất hợp pháp. Lý do là miền Bắc không hề kế thừa tánh chánh danh của Quốc Gia VN dưới thời Quốc Trưởng Bảo Đại cũng như không hề có một cuộc trưng cầu dân ý. Quốc Gia VNCH thời Đệ NhứtĐệ Nhị thì có trưng cầu dân ý, tức là có cuộc Tổng Tuyển Cử Tự Do. Chỉ có VNCH mang tánh kế thừa của Quốc Gia VN vì ý chí của Quốc Trưởng Bảo Đại là mang lại một đất nước có tự do và dân chủ. Quốc gia Việt Nam là nước có chánh danh, nên quý vị muốn nói là ngày 11 tháng 3, ngày 26 tháng 10, hoặc ngày 1 tháng 11 là ngày Quốc Khánh gì cũng hợp lý, để tránh việc sa đà vào những cuộc tranh cãi không đáng có, chỉ làm lợi và câu giờ cho cộng sản. Vì Quốc Gia đó đều hợp pháp và có chánh danh.

Mời quý độc giả xem video sau để biết thêm chi tiết và tham khảo những bài học lịch sử cần rút ra để sắp tới không mắc bẫy và không mắc phải những sai lầm không nên có:

Quý vị có thể đọc bài viết mới của tôi giải thích vì sao VNDCCH không hề kế thừa tánh chánh danh cho dù được Quốc Trưởng Bảo Đại trao ấn kiếm, hòng vạch mặt tập đoàn CSVN dối trá vẫn luôn tuyên truyền rằng VNDCCH kế thừa Quốc Gia VN dưới thời Quốc Trưởng Bảo Đại.

Bài viết: https://hauduenamviet.blog/2022/10/21/viet-nam-dan-chu-cong-hoa-khong-ke-thua-tanh-chanh-danh-cua-quoc-gia-vn-duoi-thoi-bao-dai/

  1. NGÀY QUỐC KHÁNH 2/9: GIÁ TRỊ LỊCH SỬ, Ý NGHĨA THỜI ĐẠI CỦA BẢN TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP: http://kkt.kontum.gov.vn/ngay-quoc-khanh-29-gia-tri-lich-su-y-nghia-thoi-dai-cua-ban-tuyen-ngon-doc-lap.p-1611.html
  2. Ngày độc lập nào cho Việt Nam?https://www.bbc.com/vietnamese/forum/2014/09/140901_ngay_doc_lap_nao_le_cong_dinh
  3. Ngày Quốc Khánh Việt Nam Cộng Hòa là … ngày nào? https://hon-viet.co.uk/PhanAnhTuan_NgayQuocKhanhVietNamCongHoaLaNgayNao.htm
  4. QUỐC KHÁNH ĐỆ NHỊ CỘNG HÒA NGÀY 1 THÁNG 11 NĂM 1967: https://chienhuuvnch.com/2018/01/17/quoc-khanh-1-thang-11-nam-1967/
Categories
Cảnh Báo Tuyên Truyền Giải Ảo Lịch Sử Quan Điểm Chính Trị

Ngày Cách Mạng Tháng 8 Thực Chất Là Ngày Việt Minh Cướp Chánh Quyền Trần Trọng Kim

Chúng ta được học trong mái trường Xã Hội Chủ Nghĩa là Cách mạng tháng 8, năm 1945 là ngày thắng lợi trong việc “đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước bị chủ nghĩa đế quốc thực dân áp bức, thống trị. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người dân một nước độc lập, làm chủ vận mệnh của mình” (Ban Tuyên Giáo Trung Ương; Đoạn 9).

HOÀN TOÀN SAI SỰ THẬT! Ngày Cách Mạng Tháng 8 thực chất là ngày mà Việt Minh đã cướp chánh quyền của Thủ Tướng Trần Trọng Kim.

Ngày 11 tháng 3 năm 1945 là ngày Hoàng Đế Bảo Đại đọc Bản Tuyên Ngôn Độc Lập. Đây cũng là ngày mà Quốc Gia Việt Nam được độc lập và cũng là Ngày Quốc Khánh của Quốc Gia Việt Nam. Sau khi đọc Tuyên Ngôn Độc Lập, Hoàng Đế Bảo Đại đã thoái vị và chánh thức chuyển sang từ chế độ Quân Chủ trở thành một Quốc Gia có chủ quyền, độc lập, tự do và có trưng cầu dân ý.

Vua Bảo Đại đọc Tuyên Cáo Độc Lập.

Đồng thời, Thủ Tướng chánh phủ Đế Quốc Việt Nam lúc bấy giờ là ông Trần Trọng Kim, được Vua Bảo Đại chỉ định, đã thành lập Nội Các Chánh Phủ. Nội Các được thành lập ở Huế vào ngày 17 tháng 4 năm 1945. “Đây là một dạng chính phủ nghị viện đầu tiên tại Việt Nam và Trần Trọng Kim trở thành Thủ tướng đầu tiên của Việt Nam. Tham gia Nội các của ông đều là các nhà trí thức luật sư, bác sĩ, kỹ sư (một giáo sư, hai kỹ sư, bốn bác sĩ, bốn luật sư)” (Ngọc Anh; dòng 10). Nội Các của Trần Trọng Kim chỉ tồn tại được vỏn vẹn 4 tháng(17/4 – 25/8) mà thôi.

Vì sao Chánh Phủ Trần Trọng Kim chỉ tồn tại vỏn vẹn 4 tháng?

Chánh Phủ Trần Trọng Kim lúc được thành lập rất có nhiều hạn chế “gồm cả việc không có Quốc hội, không có quân đội và không được nước nào công nhận ngoài Đế quốc Nhật Bản.” Cho nên lúc đó, Việt Minh đã lợi dụng thời cơ đó để cướp chánh quyền của Trần Trọng Kim. Chúng ngang nhiên thay lá cờ máu và treo lên trước toàn dân vào ngày 21 tháng 8, năm 1945.

Cảnh Việt Minh treo lá cờ máu trước toàn dân sau khi cướp chánh quyền Trần Trọng Kim

Trong lúc Việt Minh cướp chánh quyền, không một ai ngăn cản cả. Người dân lúc đó tưởng là Việt Minh là chánh phủ tiếp theo. Ngay cả Quốc Trưởng Bảo Đại cũng “không cho binh lính mai phục bắn vào nhóm thanh niên theo Việt Minh trèo lên kỳ đài ở Huế hạ cờ vàng và kéo cờ đỏ sao vàng lên cột ngày 21/08″(BBC Tiếng Việt). Vua Bảo Đại có quyền làm điều đó, nhưng ông không muốn phải giết người đồng bào của mình. Ngay cả Thủ Tướng Trần Trọng Kim và “Khâm sai Đại thần Phan Kế Toại đã không cho Bảo an binh bắn vào đoàn biểu tình và cũng không yêu cầu quân Nhật can thiệp”(BBC Tiếng Việt). Nói cách khác, ông không muốn mượn tay người nước ngoài để giết người Việt.

Đó chính là lần cướp chánh quyền lần thứ nhứt trước khi cướp chánh quyền lần thứ hai là ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Mời quý vị nghe ký giả Huỳnh Quốc Huy trình bày thêm ở video sau đây:

Kết luận, ngày cách mạng tháng 8 mà Cộng Sản Việt Nam tuyên truyền là đã chiến thắng trong việc giành tự do và độc lập cho dân Việt là hoàn toàn dối trá. Thực chất đây là một cuộc cướp chánh quyền. Việt Nam đã được độc lập trước khi Việt Minh vào cướp chánh quyền Trần Trọng Kim. Việt Nam đã độc lập trước đó rồi thì cái việc Việt Minh đã giành độc lập là hoàn toàn không có giá trị. Chúng tôi đã độc lập mà các anh ngang nhiên lá cờ và tuyên bố Việt Nam đã độc lập là các anh đang cướp chánh quyền rồi! Không ai mượn các anh để mà “giải phóng dân tộc” cả.

Đây là sự thật lịch sử của cái gọi là Cách Mạng Tháng Tám. Xin các phụ huynh nào có con em đi học hãy cho chúng đọc bài viết về sự thật lịch sử. Lịch sử mà chúng học trong trường hoàn toàn là dối trá, không có cái nào là sự thật hoàn chỉnh cả. Đặc biệt là các bạn trẻ, các bạn có đầu óc, có tư duy và có khả năng tự tìm hiểu trên Internet. Lịch sử là đa chiều chứ không phải là một chiều. Khi bạn học lịch sử thì các bạn phải tự tìm hiểu ở nhà như là đọc thêm sách hoặc là những nguồn tài liệu ở Intenet mà bạn không thể tìm thấy ở sách giáo khoa hay sách báo của cộng sản phê duyệt. Điều này giúp cho các bạn có tư duy phản biện và nhìn nhận đúng sai. Nếu các bạn không có kỹ năng này thì các bạn cũng sẽ bị biến thành những con bò đỏ bị nhồi sọ mà thôi. Hãy đọc bài viết này để tham khảo thêm lời tôi nói:

Nguồn:

  1. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 – sự kiện vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam: http://huyenuy.namtramy.quangnam.gov.vn/Default.aspx?tabid=1292&Group=219&NID=4395&cach-mang-thang-tam-nam-1945–su-kien-vi-dai-trong-lich-su-dan-toc-viet-nam
  2. Sự thành lập chính phủ Trần Trọng Kim, 1945: https://baotanglichsu.vn/vi/Articles/3097/19449/su-thanh-lap-chinh-phu-tran-trong-kim-1945.html
  3. Nội các Trần Trọng Kim: 5 thành tựu trong 4 tháng: https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-40433411